LÀM GÌ ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ?

20/11/2018 11:33:45
Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế biển toàn diện trên cơ sở khoa học tiên tiến mang tầm quốc gia cũng như khu vực, không chỉ chú trọng khai thác tiềm năng hiện tại mà cần coi trọng việc bảo tồn để khai thác tốt hơn tiềm năng trong tương lai.

Thực trạng và tiềm năng

Hiện nay, số dân cư sống ở các vùng ven biển tăng lên rất nhanh, bao gồm hàng triệu người làm nghề đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, vận tải biển, dịch vụ đóng sửa tàu thuyền, chế biến thủy sản, dầu khí, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, du lịch… Nhiều thị trấn, thị tứ, khu nghỉ dưỡng đã hình thành dọc theo chiều dài ven biển của đất nước.

Nhưng những kết quả trên mới chỉ là bước đầu, bởi chiến lược phát triển kinh tế biển chưa được quán triệt trong cộng đồng doanh nghiệp và nông ngư dân. Việc phát triển kinh tế biển trong thời gian qua chưa quan tâm đầy đủ đến đào tạo nhân lực, chưa lồng ghép các chương trình phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền an ninh biển đảo.

Ngư dân Phú Yên trong chuyến ra khơi câu cá ngừ đại dương

Nhiều địa phương, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, cư dân ven biển còn thờ ơ với tác động của biến đổi khí hậu đến sự phát triển kinh tế biển bền vững, chưa nhận thức đầy đủ ngành kinh tế biển là ngành đầu tiên chịu sự thiệt hại nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu vẫn là cơ chế, chính sách chưa phù hợp. Cơ chế, chính sách đối với kinh tế biển không có gì đặc thù đáng kể so với khung chính sách chung, đều trong khuôn khổ các luật như Luật Đầu tư, Thương mại, Hải quan… Kinh tế biển mang tính đặc thù nên cần có một cơ chế, chính sách đặc thù, khác biệt với cơ chế, chính sách chung hiện hành.

Nước ta hiện có hơn 300 khu công nghiệp có cơ cấu sản xuất tương đối giống nhau, 15 khu kinh tế không có sự khác biệt nhiều nên chưa hình thành được kinh tế vùng – yếu tố cấu thành nên nền kinh tế quốc dân có năng lực cạnh tranh cao.

Để nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu vì biển thì phải khai thác thế mạnh ở tất cả các tỉnh ven biển từ Móng Cái đến Cà Mau, Kiên Giang, đồng thời phát huy tốt nhất lợi thế và khắc phục nhược điểm của từng vùng kinh tế, từng địa phương để tránh lãng phí nguồn lực.

Để phát triển bền vững

Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu biển là rất cần thiết, trước tiên là giúp các nhà khoa học Việt Nam nhanh chóng tiếp cận được với các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới, học hỏi được kinh nghiệm và kỹ năng tổ chức các công việc nghiên cứu trên biển, thu nhận các tư liệu, thông tin quan trọng do các đối tác nước ngoài cung cấp thông qua hợp tác.

Hơn nữa hợp tác quốc tế cũng đồng thời góp phần làm lành mạnh các mối quan hệ phức tạp và căng thẳng trên biển, giúp Việt Nam tỏ rõ thiện chí của mình trong quá trình hội nhập toàn cầu, góp phần hiện thực hóa các quy định, thỏa thuận và luật pháp quốc tế về biển.

Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, cần phải thực hiện ngay một số nhóm giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển. Trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng cư dân ven biển về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vì đây là ba mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau.

Xây dựng đề án tái cơ cấu ngành kinh tế biển, cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các cấp, các ngành, địa phương và vùng lãnh thổ, có sự quản lý, tập trung của Trung ương, tạo nên bước đột phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng và chiều sâu.

Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới, gắn phát triển kinh tế biển với phòng ngừa thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên tất cả các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng tuyến đảo, hệ thống cảng biển, đô thị ven biển, các ngành dầu khí, đóng tàu, giao thông, du lịch, khai thác nuôi trồng thủy hải sản…

Đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa doanh nghiệp, hợp tác xã, xây dựng thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển.

Huy động cộng đồng tham gia vào việc kiên cố hóa đê điều, khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển tạo hành lang bảo vệ đê biển, ngăn ngừa nước biển dâng và nước mặn lấn sâu vào đồng ruộng. Tổ chức các tổ đoàn kết, hợp tác xã vận tải trên biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản… để có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất ứng phó với bão tố, sóng thần.

Mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nước. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu quản lý các ngành kinh tế biển và cộng đồng cư dân ven biển không những có trình độ chuyên môn, mà còn có kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 80%.

Theo Văn Hào (Petrotimes.vn)